Đặc điểm Từ_(thể_loại_văn_học)

Từ có số chữ trong bài cố định, câu dài ngắn, và phối hợp chặt chẽ với âm nhạc. Song, nó khác nhạc phủ ở chỗ "cách luật nghiêm nhặt", khác Đường luật ở chỗ "câu dài ngắn", khác thơ cổ phong ở chỗ "cách luật nghiêm nhặt và số chữ cố định".

Đời Tống có khoảng 870 điệu từ với những biến thể của chúng. Tên điệu từ thoạt đầu chính là đề tài của tác phẩm, như Dương liễu chi để vịnh liễu, Lăng đạo sa để vịnh cát, Đạp ca từ để tả điệu múa...song về sau chỉ còn là tên gọi đơn thuần.

Mỗi điệu từ có một từ phổ. Điệu ngắn nhất là Trúc chi từ (14 chữ), dài nhất là Oanh đề tự (240 chữ). Những điệu tương đối dài, thường chia làm hai đoạn, công thức có thể giống nhau hoặc hoàn toàn khác nhau. Số chữ trong câu có thể dài trên mười chữ, cũng có thể chỉ là một chữ.

Luật bằng trắc của từ rất chặt chẽ, nhìn chung không có lệ "bất luận" như ở thơ Đường luật.

Một bài có thể dùng nhiều vần. Vần có trắc hoặc bằng, hoặc cả hai (xen kẽ); song chủ yếu gieo vần bằng ở trong điệu Cán khê sa, Lãng đào sa, Nhất tiễn mai...và chủ yếu gieo vần trắc ở Ức tần nga, Như mộng lệnh, Nguyễn lang quy...

Trình tự gieo vần ở từ cũng rất đa dạng, có thể là vần liền, vần gián cách, vần ôm...Thí dụ như:

  • aa bb cc dd ở trong điệu Chiêu Quân oán, Bồ tát man
  • abba ở trong điệu Tây giang nguyệt
  • ababbb ở trong điệu Sa song hận
  • aa bbb ccc ở trong điệu Điều tiếu lệnh...[3]